Bệnh rubella ở trẻ em: Những điều phụ huynh cần biết

Bệnh rubella là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, có khả năng gây dịch do virus rubella gây ra. Hầu hết các trường hợp bệnh rubella ở trẻ em không có biểu hiện bệnh trên lâm sàng và thường lành tính tự khỏi, nhưng nhiễm rubella trong lúc mang thai lại rất nguy hiểm vì thai nhi rất dễ có nguy cơ cao bị hội chứng rubella bẩm sinh gây ra nhiều dị tật nặng nề. Để hiểu rõ hơn về nguyên nhân và cách điều trị bệnh, mời bạn đọc cùng Docosan tham khảo nội dung trong bài viết dưới đây.

Bệnh rubella ở trẻ em là gì?

Bệnh rubella là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, có khả năng gây dịch do virus rubella gây ra với các triệu chứng nổi bật là sốt trung bình 3 ngày, tổng trạng không thay đổi, nổi các hồng ban dát sẩn, nổi hạch (đặc biệt hạch sau tai) và viêm khớp (ở người lớn).

Bệnh rubella: Nguyên nhân, triệu chứng, biến chứng và cách đề phòng | Vinmec
Bệnh Rubella

Bệnh rubella ở trẻ em và người lớn hầu như không có các triệu chứng bệnh đặc hiệu trên lâm sàng và bệnh cũng thường lành tính và tự khỏi, nhưng nhiễm rubella trong thai kỳ thì lại rất nguy hiểm vì thai nhi sẽ dễ có nguy cơ cao bị hội chứng rubella bẩm sinh gây nên nhiều dị tật nặng nề cho trẻ.

Nguyên nhân bệnh Rubella ở trẻ em

Nguyên nhân bệnh rubella là do virus Rubella gây ra. Rubella là virus ARN chuỗi đơn, có vỏ bọc, tăng sinh trong bào tương của tế bào ký chủ, thuộc họ Togaviridae, giống Rubivirus.

Virus rubella không lây bệnh qua trung gian côn trùng. Người là ký chủ và là nguồn bệnh duy nhất của bệnh rubella. Người bệnh có triệu chứng, người nhiễm rubella không biểu hiện triệu chứng, trẻ sơ sinh mắc bệnh rubella bẩm sinh là những nguồn lây bệnh quan trọng.

Bệnh rubella lây qua đường hô hấp thông qua giọt bắn hoặc hạt khí dung từ chất tiết hô
hấp của người mang mầm bệnh. Thời điểm lây nhiễm quan trọng từ khoảng 5 ngày trước khi xuất hiện ban tới 6 ngày sau khi ban bắt đầu xuất hiện. Lây nhiễm mạnh nhất xảy ra vào thời điểm ban xuất hiện và giảm nhanh ngay sau đó.

Cần lưu ý bệnh rubella ở trẻ em bẩm sinh, virus vẫn tiếp tục được thải ra ngoài với số lượng lớn thông qua các dịch tiết cơ thể (dịch tiết hô hấp và nước tiểu) trong nhiều tháng và có thể tới khi trẻ được 2 tuổi.

Người chích ngừa rubella không có khả năng truyền bệnh rubella cho người khác, dù rubella có hiện diện trong chất tiết hầu họng ở những đối tượng này vì lượng virus quá ít trong chất tiết để có thể lây bệnh được cho người khác.

Chẩn đoán bệnh Rubella ở trẻ em

Bệnh rubella ở trẻ em là thể bệnh nhẹ, tự khỏi, tuy nhiên các triệu chứng lâm sàng không đặc hiệu nên thường khó chẩn đoán chính xác. Một số dấu hiệu gợi ý trên lâm sàng để hướng tới chẩn đoán bệnh rubella ở trẻ em:

Dịch tễ

  • Trẻ chưa chủng ngừa rubella
  • Trẻ có tiếp xúc với người bị sốt phát ban nghi ngờ hoặc xác định nhiễm rubella
  • Trẻ chưa bị rubella
  • Mẹ bị nhiễm Rubella trong quá trình mang thai trẻ

Lâm sàng

Bệnh rubella ở trẻ em mắc phải sau sanh thường có biểu hiện lâm sàng nhẹ nhàng, tự khỏi, ít biến chứng nặng và cũng có rất nhiều trường hợp nhiễm rubella không biểu hiện triệu chứng. Giống như nhiều bệnh lý sốt siêu vi gây dịch khác (như sởi, thủy đậu, quai bị) triệu chứng ở trẻ em nhiễm rubella nhẹ hơn so với người lớn.

Ngược lại với bệnh rubella ở trẻ em sau sanh, nhiễm rubella trong thai kỳ lại rất trầm trọng vì nguy cơ thai bị gây dị tật rất cao và nặng nề.

Bệnh Rubella gồm 4 thời kì:

  • Thời kỳ ủ bệnh: kéo dài trung bình khoảng 14 ngày, thay đổi từ 12-23 ngày.
  • Thời kỳ khởi phát:
    • Thường kéo dài khoảng một ngày sau đó ban sẽ xuất hiện, tuy nhiên có thể kéo dài tới 5 ngày.
    • Triệu chứng tiền triệu chủ yếu xuất hiện ở người lớn, hiếm gặp trong bệnh rubella ở trẻ em. Triệu chứng tiền triệu gồm:
      • Sốt nhẹ, đôi khi có thể đi kèm với nhức đầu, mệt mỏi, chán ăn. Các triệu chứng này thường nhẹ nhàng và không ảnh hưởng tới tổng trạng chung của bệnh nhân.
      • Viêm long với biểu hiện viêm nhẹ mũi họng và viêm kết mạc, bệnh nhân không sợ ánh sáng hoặc sợ gió như trong bệnh sởi. Khi ban xuất hiện, các triệu chứng trên sẽ nhanh chóng suy giảm và thường biến mất vào ngày hôm sau.
      • Nổi hạch viêm là triệu chứng nổi bật nhất. Hạch viêm xuất hiện sớm (ít nhất 24 giờ) trước khi ban xuất hiện, kích thước trên 1cm, di động, ấn đau rõ nhất vào ngày phát ban, sau đó đau giảm nhanh vào ngày hôm sau nhưng hạch tovẫn còn sờ được sau nhiều ngày tới vài tuần sau đó. Trong bệnh rubella ở trẻ em thường không có triệu chứng tiền triệu, nhưng nổi hạch sau tai, hạch chẩm, hạch cổ kéo dài lại rất thường gặp trên lâm sàng và mặc dù không đặc hiệu cho bệnh rubella nhưng là dấu hiệu hướng tới chẩn đoán rubella trên lâm sàng.
      • Xuất hiện chấm xuất huyết ở khẩu cái mềm trong giai đoạn tiền triệu ngay trước phát ban hoặc trong ngày ban xuất hiện, biến mất nhanh khi ban hết.
  • Thời kỳ toàn phát
    • Thời kỳ này kéo dài trung bình khoảng 3 ngày, tuy nhiên có thể thay đổi từ 1 tới 5 ngày.
    • Ban dạng hồng ban dát sẩn xuất hiện đầu tiên ở mặt rồi nhanh chóng lan toàn thân, xu hướng li tâm, theo thứ tự từ trên xuống trong vòng 24 giờ. Cuối ngày thứ nhất ban lan toàn thân, dạng dát sẩn, hoặc dát hồng ban, màu hồng đỏ nhạt, đứng rời rạc. Ngày thứ 2, ban bắt đầu nhạt màu ở vùng đầu mặt, ban vùng thân mình có xu hướng kết hợp tạo ra những một vùng da hồng đỏ, đều, đồng nhất cho hình ảnh giống như ban sốt tinh hồng nhiệt, tuy nhiên sang thương ở tứ chi vẫn rải rác chứ không có xu hướng kết hợp như ban ở thân mình. Cuối ngày 3 ban sẽ biến mất hết và thường không để lại dấu vết.
    • Thời gian phát ban thường kéo dài 3 ngày, đôi khi có thể tới 5 ngày hoặc có khi ban chỉ xuất hiện trong ngày rồi biến mất.
  • Thời kỳ hồi phục: Từ lúc ban biến mất hoàn toàn (ngày thứ 4-5 của bệnh), các ban biến mất, tổng trạng bình thường, tuy nhiên hạch to vẫn có thể tồn tại thêm một vài tuần nữa.

Cận lâm sàng

  • Vì có nhiều bệnh lý ở trẻ phát ban tương tự bệnh rubella và nhiều trường hợp nhiễm rubella không biểu hiện triệu chứng ở trẻ em nên xét nghiệm Rubella đóng vai trò quyết định trong chẩn đoán xác định nhiễm rubella.
  • Hai xét nghiệm cận lâm sàng bao gồm huyết thanh chẩn đoán và xét nghiệm PCR hoặc RT-PCR là hai xét nghiệm quan trọng giúp khẳng định chẩn đoán trên thực hành lâm sàng:
    • Xét nghiệm huyết thanh chẩn đoán, phát hiện ARN của virus bằng kỹ thuật RT-PCR hoặc phân lập virus là những cách duy nhất để chẩn đoán xác định nhiễm rubella: huyết thanh chẩn đoán: Bệnh rubella có thể được chẩn đoán dựa vào sự mới xuất hiện của kháng thể IgM hoặc/và sự gia tăng tối thiểu 4 lần hiệu giá kháng thể IgG ở hai lần khác nhau, hai lần cách nhau tối thiểu một tuần.
    • Xét nghiệm PCR hoặc RT-PCR: kết quả có thể âm tính sau ngày 7-ngày 10 của bệnh.

Điều trị bệnh Rubella ở trẻ em

Bệnh rubella vẫn chưa có điều trị đặc hiệu. Chủ yếu là điều trị triệu chứng, làm giảm sốt và giảm đau trong trường hợp có biến chứng viêm khớp.

Trẻ em bị nhiễm rubella bẩm sinh có thể thải virus qua chất tiết trong vòng một năm, trừ khi cấy nước tiểu hay phân âm tính trong 3 tháng liền. Bố mẹ của bé bị rubella bẩm sinh phải được hướng dẫn và có ý thức được nguy cơ lây nhiễm tiềm ẩn của bệnh nhi đến phụ nữ có thai chưa có miễn dịch với bệnh này.

Một số biện pháp không dùng thuốc sau mà bố mẹ có thể áp dụng khi trẻ bị mắc rubella:

  • Cho trẻ bệnh ăn thức ăn mềm, lỏng, dễ tiêu, uống nhiều nước, ăn nhiều trái cây.
  • Vệ sinh mũi họng hàng ngày bằng dung dịch nước muối sinh lý 9% cho trẻ.
  • Nếu trẻ đau đầu nhiều hoặc đau khớp có thể sử dụng thêm thuốc giảm đau.
  • Đối với trẻ nhỏ cần giặt khăn bằng nước ấm lau mình hàng ngày cho bé.
  • Cách ly trẻ bệnh:
    • Thời gian cách ly: từ lúc bắt đầu phát bệnh (phát ban) cho đến 7 ngày sau khi phát ban
    • Để trẻ bệnh ở một phòng riêng thoáng mát, có đủ ánh nắng mặt trời.
    • Sử dụng các vật dụng sinh hoạt cá nhân riêng cho trẻ bệnh.
    • Hạn chế tiếp xúc với trẻ bệnh: Khi cần tiếp xúc thì phải đeo khẩu trang. Sau khi tiếp xúc phải rửa tay ngay bằng xà phòng. Đặc biệt những phụ nữ đang mang thai cần tuyệt đối tránh tiếp xúc với người bệnh.
  • Vệ sinh phòng ở của trẻ bệnh hàng ngày
  • Tiêm chủng vắc xin là biện pháp hữu hiệu để phòng bệnh Rubella:
    • Vắc-xin phòng bệnh Rubella thông dụng hiện nay là loại vắc-xin MMR (Measle, Mumps, Rubella) phòng ngừa cho cả 3 bệnh Sởi, Quai bị, Rubella. Vắc-xin phòng bệnh Rubella rất ít khi có tác dụng phụ.
    • Lịch tiêm như sau:
      • Trẻ nhỏ từ 6 đến 8 tháng tuổi không mắc bệnh đối với bệnh Rubella do có kháng thể từ mẹ truyền qua. Trong trường hợp cần thiết phải tiêm chủng Rubella trước 12 tháng tuổi nên tiến hành tiêm cho trẻ lúc 6 tháng tuổi, sau đó vẫn phải tiến hành tiêm chủng lại cho trẻ theo đúng lịch tiêm chủng của bệnh.
      • Trẻ nhỏ từ 12 tháng tuổi cho đến dưới 13 tuổi, chưa chích ngừa Rubella lần nào: tiêm 2 mũi cách nhau 2-3 năm
      • Trẻ lớn trên 13 tuổi và người lớn: chỉ tiêm một mũi duy nhất.
    • Tiêm chủng Rubella đặc biệt quan trọng đối với trẻ nữ để phòng chống bệnh trong suốt khoảng thời gian khi đứa trẻ lớn lên và mang thai sau này.

Kết luận

Bệnh rubella ở trẻ em là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, có khả năng gây dịch do virus rubella gây ra với các triệu chứng nổi bật qua 4 thời kì. Bệnh rubella ở trẻ được chẩn đoán dựa vào dịch tễ, triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng. Không có điều trị đặc hiệu cho bệnh rubella ở trẻ em. Điều trị triệu chứng là chủ yếu gồm giảm sốt hoặc giảm đau trong trường hợp có biến chứng viêm khớp ở trẻ.


Bài viết được tham khảo từ bác sĩ và các nguồn tư liệu đáng tin cậy trong và ngoài nước. Tuy nhiên, Docosan Team khuyến khích bệnh nhân hãy tìm và đặt lịch hẹn với bác sĩ có chuyên môn để điều trị.

Nguồn tham khảo: Bệnh Rubella của TS. BS Hoàng Trường

Có thể bạn quan tâm